Trung tâm nghiên cứu và triển khai công nghệ bức xạ

Research and Development Center for Radiation Technology
Ngôn ngữ
Liên hệ

CHẶNG ĐƯỜNG ĐÁNG TỰ HÀO

Hơn hai mươi năm trước, Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ (VINAGAMMA) đã được thành lập theo Quyết định số 159/QĐ-BKHCNMT, ngày 14 tháng 2 năm 2000. Chặng đường phát triển, trưởng thành của VINAGAMMA là những bước đi chập chững ban đầu của một ứng dụng quy mô công nghiệp - Chiếu xạ sử dụng nguồn Co-60, là những năm đầu đáng ngại vì gánh nặng trả nợ ngân hàng và tiền hoàn trả nhân sách Nhà nước, là khó khăn về hỏng hóc máy chiếu xạ khi chưa nắm vững công nghệ - máy 'hỏng lên, hỏng xuống', nỗi buồn vì nguồn hàng ban đầu còn ít, doanh thu những tháng đầu quá nhỏ, cơ chế nhiều khi còn 'trói buộc', 'bất hợp lý'. Tập thể VINAGAMMA xứng đáng để tự hào rằng chúng ta đã nhận được sự đầu tư, giúp đỡ của Nhà nước và chúng ta đã làm ra nhiều của cải hơn cái chúng ta đã nhận, Trung tâm phát triển bền vững cả về quy mô, đường hướng và trí tuệ, trở thành một đơn vị đầu ngành trong lĩnh vực Công nghệ Bức xạ ở nước ta. Trung tâm đã là nhân tố quan trọng trong việc hỗ trợ xuất khẩu thủy hải sản trong những năm đầu mở cửa và đến tận ngày nay, là nhân tố để hình thành một ngành công nghiệp chiếu xạ Việt Nam ngày nay.

 

HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VINAGAMMA

1. Các chặng đường đã qua

Ngày 26 tháng 2 năm 1999, Cơ sở chiếu xạ khử trùng Tp. HCM với máy chiếu xạ công nghiệp đa năng nguồn Co-60 đầu tiên ở Việt Nam được khánh thành và đưa vào hoạt động.

Lần đầu tiên ở nước ta, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, quyết định vay Quỹ Hỗ trợ-Phát triển (HTPT) để đầu tư xây dựng Trung tâm chiếu xạ khử trùng Tp. Hồ chí Minh với lãi suất khá cao (1,1%/tháng cho khoản vay 8 tỉ và 0,81%/tháng cho khoản vay 4 tỉ). Tình trạng vay, trả  nợ Quỹ HTPT và hoàn trả tiền Dự án chuyển giao công nghệ cho Bộ KHNMT được tóm tắt như sau:

Nợ ban đầu phải trả

16.185.683.000 đ

- Nợ Quỹ HTPT

   + Vay 8.000.000.000 đ, lãi suất 1.1%/tháng

   + Vay 3.653.368.300 đ, lãi suất 0.81%/tháng

11.653.683.000 đ

- Hoàn trả Dự án chuyển giao công nghệ, 70% của số tiền 6.490.000.000 đ

4.532.000.000 đ

Đã trả đến hết nợ Quỹ HTPT vào cuối 2001

15.106.461.000 đ

  + Gốc

  + Lãi

11.653.683.000 đ

3.452.778.000 đ

Đã trả hết tiền thu hồi dự án cho Bộ cuối 2003

4.532.000.000 đ

Tổng số tiền đã trả Quỹ HTPT và Dự án của Bộ

19.683.461.000 đ

 

2. Các thành tựu chính đạt được

Sau hơn hai mươi năm bền bỉ phấn đấu, tập thể cán bộ của Trung tâm đã đạt được những thành tựu về khoa học, công nghệ, về công tác đào tạo xứng đáng là một cơ sở nghiên cứu đầu ngành của nước ta, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt là công tác xuất khẩu thủy hải sản và đảm bảo chất lượng vô trùng đối với các dụng cụ y tế, nâng cao uy tín của ngành hạt nhân nước ta đối với cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và đối với các nước trong khu vực. Sự thành công của Trung tâm trong ứng dụng chiếu xạ ở quy mô công nghiệp là nhân tố phát triển, là đòn bẩy và là ngọn đuốc soi đường tạo nên ngành chiếu xạ hiện nay với sự tham gia chủ yếu của thành phần kinh tế tư nhân.

 

        a. Phát triển nguồn nhân lực và cơ sở vật chất

Trong thời gian đầu xây dựng Trung tâm chiếu xạ, Ban Quản lý dự án (QLDA) của Cơ sở chiếu xạ khử trùng Tp. HCM đã được hình thành với các cán bộ từ Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, Trung tâm Hạt nhân Tp. HCM, một số cán bộ chuyển về từ Viện NCHN, Đà Lạt. Sau khi khánh thành Trung tâm, Ban QLDA tiếp tục điều hành Trung tâm cho đến khi có quyết định thành lập Trung tâm ngày 14/2/2000.

Các cán bộ kỹ thuật và quản lý với kinh nghiệm làm việc trên các thiết bị chiếu xạ, thiết bị nghiên cứu lớn (Lò phản ứng Hạt nhân Đà lạt) đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật vận hành máy chiếu xạ, xây dựng các quy trình vận hành, quy trình quản lý hành chính, quản lý tài chính để có thể vận hành thiết bị an toàn và có hiệu quả cao, quản lý Trung tâm theo đúng các quy định của Nhà nước.

Đội ngũ các cán bộ kỹ thuật không ngừng trưởng thành và ngày càng có kinh nghiệm, kiến thức sâu đã đảm bảo cho thiết bị chiếu xạ hoạt động ổn định, có hiệu suất kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu chiếu xạ thực phẩm và khử trùng các dụng cụ y tế phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Đội ngũ này đã lớn mạnh cả về số lượng và chuyên môn, từ nắm vững kỹ thuật, công nghệ áp dụng trong vận hành và khai thác máy chiếu xạ đã tiến đến cải tiến, thiết kế và chế tạo máy chiếu xạ công nghiệp đa năng nguồn Co-60 đầu tiên của Việt Nam, giúp Cuba lắp đặt máy chiếu xạ và trợ giúp chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ chiếu xạ.

 

Đội ngũ các cán bộ nghiên cứu về Công nghệ Bức xạ, trong thời gian đầu là các nhân tố quan trọng cho hoạt động của Ban QLDA, đảm bảo tốt công tác QA/QC trong chiếu xạ, đặc biệt là chiếu xạ thực phẩm. Đội ngũ các cán bộ nghiên cứu trưởng thành và phát triển về cả số lượng và chất lượng đã nghiên cứu, tạo ra các sản phẩm ứng dụng Công nghệ Bức xạ được thương mại hóa như Chất siêu hấp thụ nước, các chế phẩm bảo vệ và kích thích tăng trưởng cây trồng, các chế phẩm nano bạc, vàng dùng trong mỹ phẩm và các chế phẩm khác. Các cán bộ nghiên cứu  của Trung tâm hiện nay là các cán bộ đầu ngành trong lĩnh vực Công nghệ Bức xạ, đã và đang góp phần quan trọng trong đào tạo cán bộ cho ngành (hướng dẫn thực tập, hướng dẫn làm luận án tốt nghiệp đại học, luận án thạc sỹ và tiến sỹ).

 

Trung tâm được đầu tư ban đầu với máy chiếu xạ công nghiệp đa năng nguồn Co-60 và các phòng thí nghiệm quan trọng như Phòng thí nghiệm Cơ-Lý, Phòng thí nghiệm Hóa-Lý, Phòng thí nghiệm vi sinh được viện trợ bởi IAEA. Hiện nay, Trung tâm đã có 2 máy chiếu xạ công nghiệp nguồn Co-60 (ở Tp. HCM và ở Đà Nẵng) và 01 máy gia tốc công nghiệp chùm tia điện tử, các phòng thí nghiệm với các thiết bị  nghiên cứu hiện đại được viện trợ bởi IAEA qua 2 dự án (TC project), VIE/8/010 và VIE/8/018, và kinh phí Tăng cường trang thiết bị do Nhà nước cấp.

Tổng đầu tư Dự án Trung tâm Chiếu xạ Thành phố Hồ Chí Minh (Theo Quyết định số 668/QĐ-BKHCNMT, ngày 28 tháng 3 năm 2002):

Tổng đầu tư:

25.072.337.000 đồng

- Vốn ngân sách

6.706.150.227 đồng

- Vốn vay Quỹ Hỗ trợ-Phát triển

11.653.683.400 đồng

- Viện trợ của IAEA (TC Project VIE8/010)

5.310.514.300 đồng

- Vốn tự có (từ Dịch vụ chiếu xạ)

1.402.049.073 đồng

(Tương đương 1,88 triệu USD tính theo tỉ giá trung bình trong hai năm 1999 và 2000)

Với sự trợ giúp từ ngân sách Nhà nước, Trung tâm đã đầu tư lắp đặt máy chiếu xạ công nghiệp gia tốc chùm tia điện tử UELR-10-15S2. Ngày 15 tháng 8 năm 2012, máy gia tốc đã chính thức được đưa vào hoạt động. Tổng đầu tư dự án lắp đặt máy gia tốc gồm:

Tổng đầu tư:

47.489.401.565 đồng

- Vốn ngân sách

18.000.000.000 đồng

- Viện trợ của IAEA (TC Project VIE/8/018)

4.160.000.000 đồng

- Vốn tự có của Trung tâm

25.329.401565 đồng

(Tương đương 2,69 triệu USD tính theo tỉ giá trung bình 20.220 đ/USD cho 3 năm 2010-2012)

Vào ngày đầu thành lập, Trung tâm chỉ có 10 cán bộ công nhân viên sau đó tăng lên 14 người vào cuối năm 1999. Đến nay, tống số cán bộ của Trung tâm là 97; từ lúc Trung tâm chỉ quản lý 01 máy chiếu xạ nguồn Co-60, hiện nay đang quản lý 02 máy chiếu xạ công nghiệp nguồn Co-60 và 01 máy chiếu xạ công nghiệp gia tốc chùm tia điện tử. Hiện nay, các cán bộ kỹ thuật trẻ của Trung tâm đã và đang tiến tới nắm vững và làm chủ trong việc vận hành, sửa chữa và cải tiến máy chiếu xạ công nghiệp gia tốc chùm tia điện tử UELR-10-15S2.

Các hoạt động chiếu xạ khử trùng các vật phẩm y tế và thanh trùng hàng thực phẩm của Trung tâm đã nhận được Chứng chỉ ISO 9001:2008 từ tháng 12 năm 2012, ISO 9001:2015 từ năm 2018.

 

        b. Lĩnh vực công nghệ chiếu xạ

Các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm đã nỗ lực, tận tâm và có trách nhiệm cao trong vận hành, khai thác các thiết bị chiếu xạ của Trung tâm.  Cùng với sự tích lũy về kiến thức, luôn luôn nghiên cứu, học hỏi, đội ngũ này đã dần nắm bắt công nghệ chiếu xạ, làm tốt công tác sửa chữa, bảo dưỡng, vận hành có hiệu quả cao các máy chiếu xạ nguồn Co-60  và máy gia tốc chùm tia điện tử, tiến tới tính toán, thiết kế thành công và lắp đặt 02 máy chiếu xạ công nghiệp đa năng nguồn Co-60 VINAGA1 ở nước ta.

Những cải tiến quan trọng đối với máy chiếu xạ công nghiệp đa năng nguồn Co-60 đầu tiên ở Trung tâm, SVST-Co60/B:

+  Thay thế toàn bộ các piston khí nén trong Máy chiếu xạ SVST-Co60/B do có chất lượng hoạt động kém trong môi trường phóng xạ. Máy SVST-Co60/B sử dụng loại piston khí nén đặc biệt dùng trong môi trường độc hại hóa học. Tuy nhiên, các piston này lại có thời gian sử dụng rất ngắn trong môi trường bức xạ gamma, không lâu hơn một tháng. Sau khi thử nghiệm sử dụng piston công nghiệp thông thường, toàn bộ các piston của máy đã được thay thế. Việc cải tiến này đã giảm rất nhiều giá thành bảo dưỡng, mua vật tư dự phòng, tăng thời gian sử dụng của các piston từ 6 đến 9 tháng và kết quả là thời gian hỏng máy do kẹt piston đã giảm hẳn, máy chiếu xạ có thời gian vận hành lớn hơn rất nhiều so với thời gian hỏng. Lượng hàng xử lý tăng và kéo theo doanh thu tăng thêm khá lớn sau cải tiến.

 

+  Lắp đặt Hệ làm lạnh Buồng chiếu và Khu vực nạp dỡ hàng nhằm đáp ứng chiếu xạ thanh trùng hàng thủy hải sản đông lạnh. Các hệ làm lạnh sẽ đảm bảo giữ lạnh cho hàng đông lạnh trong thời gian chiếu xạ và bốc xếp hàng và đảm bảo chất lượng chiếu xạ (không bị rã đông, không bị dính do băng chảy, không có mùi nếu liều cần chiếu cao, v.v.). Hình 2 mô tả các công việc nạp-dỡ hàng khi còn sử dụng thùng xốp (năm 2003).

Ban đầu, để giữ lạnh, các thùng nhôm của máy đều được lót bởi hai thùng xốp. Các thùng xốp này có thời gian sử dụng rất ngắn, dễ bị vỡ do va đập trong quá trình nạp, dỡ hàng và gây ra chi phí đáng kể đối với Trung tâm. Sau khi trang bị các hệ làm lạnh, do không cần dùng các thùng xốp nên không gian chứa hàng trong thùng nhôm của máy tăng lên đáng kể, cấu hình xắp các thùng hàng cũng đa dạng hơn, kéo theo tăng đáng kể hiệu suất chiếu xạ (>5%). 

Hệ làm lạnh Buồng chiếu đã được lắp đặt từ tháng 7 năm 2004 và tiếp sau đó là Hệ làm lạnh Khu vực Nạp-Dỡ hàng cũng được lắp đặt vào đầu năm 2005.

 

+  Cải tiến phần cứng nhằm giảm thời gian chiếu xạ cực tiểu của máy chiếu xạ trong cả hai chế độ chiếu mẻ và chiếu liên tục.

Máy chiếu xạ SVST-Co60/B của Hungary có thời gian chiếu xạ cực tiểu trong chế độ chiếu mẻ và liên tục là 2h30' và 3h10'. Nếu chiếu xạ liên tục hàng đông lạnh với tốc độ nhanh nhất (Thời gian chiếu xạ cực tiểu là 3h10'), liều yêu cầu 3 kGy với tải trọng hàng nạp là 60 kg/thùng thì máy chiếu xạ chỉ có thể sử dụng hoạt độ nguồn cực đại là 240¸250 kCi (nếu hoạt độ nguồn sử dụng để  chiếu xạ cao hơn sẽ gây quá liều hấp thụ, dẫn đến hỏng hàng). Như vậy, do thời gian chiếu xạ cực tiểu trong chế độ chiếu liên tục lớn (80% thời gian chạy máy là chiếu xạ liên tục) nên năng suất xử lý của máy bị giới hạn bởi hoạt độ cực đại của nguồn phóng xạ có thể kéo lên (phần con lại không dùng được lưu giữ trong bể nước). Trong trường hợp này, hoạt độ phóng xạ nạp cho máy không được sử dụng hết, không hiệu quả kinh tế (Máy SVST-Co60/B có hoạt độ ban đầu là 400 kCi). Việc sử dụng toàn bộ hoạt độ phóng xạ của máy chỉ được thực hiện khi chiếu xạ dụng cụ y tế, thuốc đông-nam dược, hàng thực phẩm khô do yêu cầu liều cao (7¸25 kGy) nhưng chỉ chiếm 20% tổng thời gian chạy máy.

Để tăng tốc độ xử lý của máy chiếu xạ (tức là giảm thời gian chiếu xạ cực tiểu trong chế độ chiếu liên tục), các cải tiến phần cứng liên quan đến điều khiển một số piston quan trọng trong Hệ đảo hàng đã được thực hiện. Kết quả cải tiến đã đưa thời gian chiếu xạ cực tiểu trong chế độ chiếu liên tục xuống còn 2h35' (chiếu mẻ giảm xuống 1h40'). Điều này tương ứng với việc tăng công suất chiếu xạ của máy lên 15% và nguồn phóng xạ được sử dụng hiệu quả hơn.

 

+  Lắp đặt Hệ nạp hàng tự động, dỡ hàng bán tự động. Việc nạp-dỡ hàng trong Hệ nạp-dỡ hàng của máy chiếu xạ SVST-Co60/B trước đây được thực hiện bằng tay. Nhằm giảm sức lực công nhân bốc xếp, tăng độ tin cậy trong vận hành của Hệ, một hệ nạp hàng tự động và dỡ hàng bán tự động đã được thiết kế, chế tạo và lắp đặt. Hệ cải tiến hoạt động ổn định, tin cậy, giảm tần suất hỏng hóc cơ khí do phải thao tác đẩy thùng bằng tay.

 

Các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm đã thực hiện các đề tài cấp cơ sở, cấp Nhà nước trong việc nghiên cứu, thiết kế, chế tạo máy chiếu xạ đa năng nguồn Co-60. Trung tâm đã thành công trong việc thiết kế, chế tạo máy chiếu xạ công nghiệp đa năng nguồn Co-60 đầu tiên của Việt Nam, VINAGA1. Hai máy VINAGA1 đã được lắp đặt tại Trung tâm chiếu xạ Đà Nẵng và tại Trung tâm chiếu xạ ở Đồng Nai. Máy chiếu xạ VINAGA1 có các tính năng kỹ thuật và đặc trưng vật lý tiên tiến, tương đương với chất lượng các máy ngoại nhập, thích hợp với nhu cầu mặt hàng chiếu xạ hiện nay ở nước ta, dễ dàng và thuận tiện trong bảo dưỡng, sửa chữa và cải tiến, giá thành rẻ hơn 30% so với máy ngoại nhập có tính năng tương đương. Máy chiếu xạ VINAGA1 có thể sử dụng cho chiếu xạ khử trùng các vật phẩm y tế và sử dụng cho thanh trùng thực phẩm. Tốc độ xử lý của máy chiếu xạ VINAGA1 trong chế độ chiếu xạ liên tục cao hơn máy SVST-Co60/B của Hungary gấp 2,3 lần (tính theo thể tính hàng xử lý trong một giờ). Nhà chiếu xạ của Trung tâm chiếu xạ và Hệ đảo hàng Máy chiếu xạ VINAGA1 tại Trung tâm chiếu xạ Đà Nẵng được minh họa ở Hình 3 và Hình 4.

 

Đội ngũ các cán bộ nghiên cứu đã và đang thực hiện thành công các đề tài nghiên cứu-ứng dụng (từ nguồn kinh phí Nhà nước cấp và các hợp đồng nghiên cứu ký với IAEA), tham gia đào tạo, giảng dạy ở một số trường đại học, hướng dẫn luận án tốt nghiệp đại học, hướng dẫn luận án thạc sỹ, làm nghiên cứu sinh.  

Trung tâm luôn là đơn vị có tỉ lệ số bài báo đăng tạp chí quốc tế hàng năm trên số cán bộ nghiên cứu cao hơn các đơn vị khác.

Hình 5 và Hình 6 giới thiệu các hoạt động nghiên cứu ứng dụng và các chế phẩm thân thiện môi trường đã được thương mại của Trung tâm ứng dụng trong nông nghiệp, y tế và mỹ phẩm.

 

 

c. Công tác hợp tác quốc tế

Sự phát triển và lớn mạnh của Trung tâm có sự đóng góp rất hiệu quả từ nguồn viện trợ thiết bị và đào tạo của IAEA. Dự án kỹ thuật VIE/8/010 trong giai đoạn 1995-2001 (Radiation Sterilization of Health Care Products) là nguồn viện trợ quý giá từ IAEA để xây dựng và lắp đặt thiết bị chiếu xạ công nghiệp đa năng nguồn Co-60, Máy chiếu xạ SVST-Co60/B và Dự án kỹ thuật VIE/8/018 trong giai đoạn 2005-2009 (Applying Electron Beam Technology for Processing Biomaterials) là viện trợ quan trọng từ IAEA cho Trung tâm trong việc thực hiện đầu tư, lắp đặt máy chiếu xạ công nghiệp chùm tia điện tử UELR-10-15S2. Thành công của hai dự án này đã được IAEA ghi nhận và đánh giá rất cao về hiệu quả đầu tư và ứng dụng thực tế. Uy tín của Trung tâm đối với IAEA ngày càng cao và Trung tâm đã trở thành địa chỉ đào tạo về công nghệ chiếu xạ của IAEA (các fellowship, scientific visit, training cho các cán bộ Cuba, Philippnes, Sri Lanka, Syria đã được thực hiện tại Trung tâm).

 

Trong các năm 2012-2015, các cán bộ của Trung tâm đã thực hiện tốt Nghị định thư hợp tác khoa học và kỹ thuật với Cuba trong việc lắp đặt và đưa vào hoạt động máy chiếu xạ công nghiệp nguồn Co-60 tại Viện nghiên cứu Công nghiệp thực phẩm IIIA, La Habana. Thành công này đã chứng tỏ năng lực và uy tín chuyên môn của các cán bộ Trung tâm và nâng cao uy tín của ngành hạt nhân nước ta đối với IAEA. Hình 7 mô tả máy chiếu xạ Cuba được đưa vào chạy thử nghiệm.

 

 

3. Vai trò, vị thế của Trung tâm

Sau hơn hai mươi năm hình thành và lớn mạnh, Trung tâm đã trở thành một cơ quan nghiên cứu ứng dụng đầu ngành hạt nhân trong lĩnh vực Công nghệ Bức xạ. Các cán bộ nghiên cứu và các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm đã trở thành các chuyên gia quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu-ứng dụng Công nghệ Bức xạ ở nước ta.

 

Trung tâm được xem là đơn vị tiên phong trong ứng dụng công nghệ chiếu xạ quy mô công nghiệp ở nước ta. Kết quả vận hành an toàn và khai thác có hiệu quả kinh tế cao đối với máy chiếu xạ nguồn Co-60 đã là tấm gương khích lệ các nhà đầu tư tư nhân trong việc mạnh dạn đầu tư các trung tâm chiếu xạ trong nước. Năm 1999, Việt Nam mới có 01 máy chiếu xạ công nghiệp đầu tiên ở VINAGAMMA, đến nay cả nước ta đã có 10 máy chiếu xạ, một ngành công nghiệp chiếu xạ đã thành hình.  

 

Trong những năm đầu mở cửa, khi việc xuất khẩu thủy hải sản mang lại nguồn ngoại tệ quan trọng, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước, VINAGAMMA luôn là người đứng sau, hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo chất lượng vi sinh cho các mặt hàng xuất khẩu. Ý nghĩa hỗ trợ của VINAGAMMA đều ẩn sau các con số kim ngạch xuất khẩu thủy hải sản không ngừng tăng của nước ta (Kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản năm 2000 là 1,1 tỉ USD và là 8,8 tỉ USD năm 2018).

 

Trung tâm VINAGAMMA được IAEA xem là một tấm gương cho các nước phát triển học tập trong việc đầu tư, vận hành các thiết bị chiếu xạ công nghiệp cũng như việc nghiên cứu sản xuất ra các chế phẩm thân thiện môi trường ứng dụng trong nông nghiệp, y tế, mỹ phẩm. Trung tâm còn là địa chỉ tin cậy và có chất lượng cao trong đào tạo cán bộ của IAEA.

Với những nỗ lực phấn đấu của tập thể các cán bộ Trung tâm, ngày 17/11/2018 Trung tâm đã được trao tặng phần thưởng cao quý, Huân chương Lao động hạng 3.

 

Nhìn lại hơn hai mươi  năm hình thành và phát triển của Trung tâm có thể khẳng định rằng tất cả những gì tập thể này làm được đều là sự kế thừa của nhiều thế hệ và thật sự là 'một cuộc chạy tiếp sức'. Mỗi chặng đường các thế hệ trước đã cống hiến hết lòng, hết sức, tận tâm bao nhiêu để 'chạy nhanh' thì các thế hệ tiếp theo cũng phải cố gắng hết sức để sớm mang về vinh quang cho Trung tâm, cho Ngành Hạt nhân nước ta.

 

Trung tâm có được như ngày hôm nay, không thể quên những cán bộ lãnh đạo của Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trước đây, nay là Bộ Khoa học và Công nghệ đã có những quyết sách táo bạo, dũng cảm, chỉ đạo và ủng hộ hết lòng trong việc đầu tư phát triển xây dựng Trung tâm, nhớ mãi sự tận tâm đóng góp của các cán bộ lãnh đạo, các cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản lý của Viện Nghiên cứu Hạt nhân, Đà Lạt và Trung tâm Hạt nhân Tp. Hồ Chí Minh cho sự hình thành và phát triển của Trung tâm.

 

Từ thủa cơ hàn ban đầu cho đến vinh quang hôm nay chúng ta luôn biết ơn các khách hàng đã và đang đồng hành cùng chúng ta đi suốt chặng đường, đã mạnh dạn ứng dụng Công nghệ chiếu xạ và chúng ta lớn lên cùng với khách hàng của mình.

Một tập thể đoàn kết, đồng lòng, tận tâm, tận lực, lao động cần cù và sáng tạo cùng với một ban lãnh đạo 'dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm' thì tập thể đó sẽ tiến lên, thực hiện tốt nghĩa vụ của mình với đất nước. Trung tâm sẽ còn phát triển hơn nữa với các ứng dụng trong lĩnh vực Công nghệ Bức xạ trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, xử lý môi trường, v.v.

 

Các cán bộ trung tâm VINAGAMMA xứng đáng tự hào và ngẩng cao đầu bước tiếp trên con đường ứng dụng khoa học vào đời sống. Chúng ta tự hào vì đã đóng góp một phần cho sự phát triển của kinh tế đất nước, cho Ngành Năng lượng Nguyên tử Việt Nam; Hãy ngẩng cao đầu bước tiếp vì chúng ta - những cán bộ nghiên cứu và kỹ thuật được nhân dân, Nhà nước tin cậy, đầu tư kinh phí để thực hiện các nghiên cứu và ứng dụng, với lòng tự trọng cao, không phụ lòng mong mỏi của nhân dân đã và đang sử dụng những đầu tư này có hiệu quả khoa học, kinh tế và xã hội cao nhất. 

Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2019

                                                                        Trần Khắc Ân